6/03/2011

Những câu chuyện cảm động của cụ ông 10 năm ở bên Bác

(Dân trí) - Lấy cho chúng tôi xem tấm hình đen trắng chụp ngày mà “đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”, ông Quang nói ông may mắn và hạnh phúc khi được ở gần bên Bác. Lúc Bác mất ông được vinh hạnh túc trực bên linh cữu...

Gần 10 năm ở bên Bác Hồ với ông Hoàng Tấn Quang (78 tuổi, thôn Tân Hồng, xã Đồng Tâm, Yên Thế, Bắc giang) là quãng thời gian hạnh phúc nhất cuộc đời. Ông được coi là nhân chứng sống về tấm gương đạo đức Chủ Tịch Hồ Chi Minh.
 
Ông Quang trân trọng khi xem lại những tư liệu về Bác Hồ

Căn nhà nhỏ của ông rất giản dị, được bố trí gọn gàng, ngăn nắp, cùng với tấm hình đen trắng chân dung Bác Hồ đặt nơi tôn nghiêm nhất trong nhà. Dù đã ở tuổi 78, mái tóc bạc trắng, nhưng giọng nói ông vẫn sang sảng, dáng đi nhanh nhẹn.
Ông bồi hồi xúc động kể cho chúng tôi nghe những kỷ niệm hơn 40 năm về trước, về quãng thời gian ông ở bên Bác, từ năm 1960 cho đến khi người đi xa.
Ông sinh ra tại vùng cao Cấm Sơn, Lục Ngạn (Bắc Giang), bố mẹ ông không may qua đời khi ông vừa tròn 5 tuổi. Ông lớn lên trong sự yêu thương đùm bọc của các anh chị em và tình người nơi miền sơn cước. Năm ông 18 tuổi, cũng là lúc cuộc kháng chiến chống pháp đang bước vào thời kỳ cam go quyết liệt.
Cũng như bao lứa trai làng đi theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, ông xung phong đi bộ đội. Tuy nhiên, cả ba lần đều không được vì không đủ cân nặng và sức khỏe không đảm bảo. Với suy nghĩ góp một phần nhỏ bé cho cách mạng, ông liền tham gia các hoạt động tại địa phương, rồi tham gia đoàn dân công đi xây dựng khu tự trị Việt Bắc. Sau đó ông chuyển về công tác tại Nông trường Bố Hạ.
Tấm hình ông chụp chung với đồng chí Phạm Văn Đồng

Đầu năm 1960, Văn phòng Chủ tịch nước cần người về chăm sóc vườn cam cho Bác Hồ. Tỉnh Hà Bắc đã cử ông cùng đồng chí Ngô Văn Các đi.

"Các chú chào Bác mà vẫn đút một tay trong túi quần..."

Dù đã hơn 40 năm trôi qua, nhưng với ông kỷ niệm những tháng ngày được ở bên và phục vụ Bác vẫn còn vẹn nguyên. “Vào một buổi sáng sau 4 tháng vào Phủ Chủ tịch lần đầu tiên tôi được tiếp xúc và trò chuyện với Bác. Lúc đó tôi đang tưới nước cho cây thì Bác đến bên và hỏi: “ Chú có biết cây này là cây gì không?, tôi hồi hộp, lúng túng trả lời: “Thưa Bác! Cháu không biết ạ”. Bác ôn tồn, chậm rãi chỉ từng cây giảng giải cho tôi nghe: “ Đây là cây móng bò, còn kia là cây tường vi…”.
Rồi Bác nhắc nhở tôi: “Người chăm sóc cây thì phải biết tên từng loại cây”. Lời dạy của Bác chỉ bấy nhiêu thôi nhưng tôi đã khắc cốt, ghi tâm mỗi khi làm việc gì tôi đều tìm hiểu một cách cặn kẽ”, ông kể.
 
Cũng vào một buổi sáng mùa Đông năm ấy, khi ông và một người bạn đang làm công việc thường ngày của mình thì Bác từ nhà ăn đi về nhà sàn. Hai người đã đứng nghiêm chào Bác. Bác chào lại và nhẹ nhàng nhắc nhở: “Các chú chào Bác mà vẫn đút một tay trong túi quần, nếu khách nước ngoài nhìn thấy họ sẽ đánh giá người Việt Nam mình thiếu lịch sự”. Ông và người đồng chí của mình thấm thía mãi lời dạy của Người.
 
Ảnh chụp chung với Bác
Từ năm 1964, ông được phân công làm cần vụ, trực tiếp chăm sóc bữa ăn giấc ngủ cho Bác. Ở gần Bác, ông càng học được nhiều điều bổ ích sâu sắc từ những việc làm tưởng chừng hết sức giản dị, bé nhỏ của Bác.
“Bữa cơm của vị Chủ tịch nước rất đạm bạc, Bác thích ăn cơm với cá kho, cà muối, rau luộc. Hôm nào ngon miệng lắm Bác mới ăn được hai lưng cơm. Bữa nào không bận tiếp khách, Bác thường xuống nhà bếp dùng bữa với anh em phục vụ. Mấy Bác cháu vừa dùng cơm vừa trò chuyện vui vẻ, không một khoảng cách địa vị nào cả”.
 
Lặng đi mấy giây ông nói tiếp: “Một buổi trưa ăn cơm xong, trong lúc trò chuyện, Bác hỏi hoàn cảnh gia đình tôi. Biết tôi mồ côi cha mẹ, anh em đùm bọc nuôi nhau lớn, đang vui bỗng Bác ngồi lặng đi. Sự quan tâm gần gũi, giản dị của Bác như người cha già dành cho không chỉ với riêng tôi mà toàn thể các anh em đồng chí ở Phủ Chủ tịch và cả dân tộc”.
Ông kể cho chúng tôi nghe tiếp những kỷ niệm về Bác: “Trước cửa nhà sàn có ao cá, được Bác và anh em chúng tôi chăm sóc nên cá mau lớn. Hôm Phủ Chủ tịch có khách, anh em chúng tôi bàn nhau kéo cá. Khi bàn thì ai cũng hăng lắm nhưng khi bắt tay vào làm thì ai cũng ngại vì Bác rất yêu thiên nhiên, sáng nào Bác cũng dậy sớm đi thể dục trong vườn và cho cá ăn. Chúng tôi bèn nghĩ ra một cách nếu Bác có hỏi thì thưa với Bác là: “Cá dày quá, anh em chúng cháu bắt bớt đi để cho chúng lớn”. Đang bắt cá thì bỗng Bác từ trên nhà sàn đi xuống, Bác cười và hỏi: “Các chú bắt cá của Bác có phải nộp tô không đấy”. Bác vừa nói xong thì cả Bác và cháu cùng cười”.
 
Bằng khen của Chủ tịch nước
“Bác sống giản dị, làm việc nguyên tắc. Đức tính tiết kiệm của Bác không chỉ trong việc ăn uống. Tôi còn nhớ, có một buổi sáng, tôi đến dọn phòng cho Bác để Bác tiếp khách thì thấy Bác rút một chiếc chiếu ở gầm giường ra và nói với tôi: “Chiếc chiếu này bị rách, chú mang về vá lại cho Bác”. Tôi mang chuyện này hỏi anh Vũ Kỳ (thư ký của Bác), anh Kỳ bảo: “Làm gì có ai vá chiếu bao giờ, đồng chí chuẩn bị cho Bác chiếc chiếu mới”.
Mấy hôm sau tôi lên dọn phòng cho Bác, Bác hỏi tôi đã vá xong chiếc chiếu cho Bác chưa? Tôi đã nói lại ý anh Kỳ, thấy Bác im lặng, tôi xấu hổ, áy náy mãi. Vì thế mỗi lần giặt chiếu cho Bác tôi rút ra kinh nghiệm, phơi chiếu vừa khô tới rồi quấn lại để sợi cói không sổ”.
 
“Vào mùa đông, tôi thấy tất của Bác cứ bạc mòn ở phía gót. Tôi nghĩ mãi mà không ra nguyên nhân tại sao. Một hôm Phủ Chủ tịch có khách tôi chạy đi chạy lại nhiều nên đôi dép bị đứt quai, văn phòng cấp cho tôi một đôi dép rọ Trung Quốc để đi. Khi đoàn khách về, thấy có đôi dép lạ Bác hỏi anh cảnh vệ đôi dép ấy của ai, rồi Bác khen “Sang quá nhỉ”. Khi đó tôi đang dọn trên phòng nghe được, mới nhớ ra đôi dép cao su mòn hai bên gót của Bác mà có lần anh Kỳ nói thay cho Bác. Bác không đồng ý, Bác nói: “Không phải thay, vẫn còn tốt chán”. Mai lúc ấy tôi mới biết tại sao đôi tất của Bác bị mòn hết gót. Cả đêm hôm đó tôi không ngủ được, nằm thương Bác mà thấy mình lạc lõng quá”.
Nhắc lại những kỷ niệm đó, những giọt nước mắt xúc động cứ lăn dài trên đôi gò má của ông, rồi ông kể về bữa ăn cháo ngô của Bác. Đó là vào 1965 - 1966, chiến trường Miền Nam đang diễn ra ác liệt, miền Bắc lại mất mùa. Lúc đó Bác và Chính phủ kêu gọi đồng bào tiết kiệm lương thực ủng hộ Miền Nam. Bác gọi người trực tiếp lo cơm nước cho Bác yêu cầu mua ngô về nấu cháo cho Bác ăn trong một tuần.
 
Bên linh cữu của Người
Khi đó Mỹ cũng bắt đầu thực hiện cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Có nhiều công việc cần phải giải quyết, Bác phải dùng bữa ngay tại phòng làm việc. “Ba ngày đầu mang cháo đến phòng làm việc của Bác mà trong lòng tôi thấy bao ái ngại. Đến hôm thứ tư, nhìn vào bát cháo ngô, thương Bác tuổi đã già không kìm nén được tôi đã khóc trên đường mang cháo đến cho Bác.
Tới nơi, tôi mạnh dạn đề nghị Bác dùng cơm nhưng Bác từ chối và nói: “Bác là người đề ra chủ trương này mà Bác không thực hiện thì bảo ai sẽ thực hiện”. Bác của chúng ta là vậy đấy, cả đời Bác chỉ nghĩ cho dân tộc, đất nước thôi”.
Mỗi lời nói, cử chỉ, hành động, việc làm của Bác đều là tấm gương sáng ngời để mọi người học tập. Ông Quang cho biết thêm, những năm cuối đời sức khỏe Bác đã yếu đi nhiều. Năm 1967, tranh thủ thời gian Bác đi công tác ở nước ngoài, Bộ Chính trị đã thống nhất làm cho Bác ngôi nhà 67 (gần nhà sàn) để Bác được an toàn hơn và đỡ phải lên xuống cầu thang. Cuối năm 1967, Bác trở về, Bác về hôm trước thì hôm sau họp Bộ chính trị.
Sau khi họp xong Bác cùng với một số đồng chí trong Bộ chính trị đi bách bộ trong vườn. Đến ngôi nhà 67, Bác hỏi: “Ai cho phép các chú làm cái nhà này cho Bác”. Lúc đó Đồng chí Phạm Hùng nhanh miệng đáp: “Báo cáo Bác! Tập thể anh em chúng cháu ạ”. Bác hỏi tiếp: “Tập thể phải có cá nhân phụ trách, vậy ai phụ trách?”. Mọi người im lặng không ai nói gì. Một lúc, Bác nhẹ nhàng nhắc nhở: “Nhà cửa có rồi thì xây làm gì thêm lãng phí. Theo báo cáo của các địa phương hiện giờ đang thiếu rất nhiều trường lớp cho con em đi học. Tiền của này để xây dựng trường lớp cho các cháu”.

Ông Quang sống giản dị giữa đời thường

Lấy cho chúng tôi xem tấm hình đen trắng chụp ngày mà “đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”, ông Quang nói ông may mắn và hạnh phúc khi được ở gần bên Bác. Lúc Bác mất ông được vinh hạnh túc trực bên linh cữu Người. Khi Bác mất, vì thương nhớ Người mà ông ốm nặng, sút gần 10 kg. Sau đó ông phục vụ Chủ tịch Tôn Đức Thắng đến năm 1971 thì xin về công tác tại Nông trường Bố Hạ cho tới khi nghỉ hưu.
Với những đóng góp của mình ông được Nhà nước tặng nhiều bằng khen và danh hiệu cao quý. Ông được coi là tư liệu sống về tấm gương đạo đức của Chủ Tịch Hồ Chi Minh vĩ đại.
Ông Quang chia sẻ: “Đã bao năm rồi tôi vẫn nhớ như in những lời Bác dạy cùng ánh mắt hiền dịu, nụ cười ấm áp của Người. Từ khi ở bên Bác cho tới bây giờ tôi luôn làm theo những lời Bác dạy, không đánh mất phẩm chất đạo đức của người cách mạng, cống hiến cả đời cho tổ quốc, quê hương”.
Nguyễn Khoát - Duy Tuyên

0 nhận xét:

Share

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More